Thứ Bảy, 23 tháng 1, 2016

Cơn sốt “thần dược” Viagra

Học Báo tiếng Anh
Kiến Thức Ngày Nay, số 282, ngày 01/05/1998

***

Đằng sau những cái tên của sản phẩm, giới chuyên môn gọi là “nhãn hiệu đăng ký”, “nhãn hiệu cầu chứng” hoặc “nhãn hiệu trình tòa” (registered trademark), là cả một công trình sáng tạo của các nhà sản xuất. "Thần dược (magic drug) Viagra, một trong những đề tài thời sự nóng bỏng trong giới y học vào đầu tháng 4/1998 vừa qua, là một thí dụ điển hình về chuyện đặt tên sản phẩm.

Trước khi nói đến tác dụng của loại thuốc trị “chứng nhược dương” hay “liệt dương” (impotence), xin bàn đến cái tên Viagra mà nhà sản xuất Pfizer đã sáng tạo ra. Đây là lối chơi chữ qua việc ghép hai từ “vigor” (sự cường tráng) và “Niagara”, “thác nước ngoạn mục” (spectacular falls) với độ cao 50m nằm giữa biên giới Mỹ và Canada, tương trưng cho “sức mạnh vô biên” (immense power).

Mạnh như… Thác nước Niagara
Thật ra thì cái tên Viagra đã được “các bộ óc nghiên cứu” (think-tanks) của Pfizer sáng tạo từ nhiều năm trước đây nhưng vẫn chưa đăng ký vì còn chờ một sản phẩm xứng đáng với cái tên tuyệt vời do họ nghĩ ra. Cuối cùng thì Pfizer tung ra thị trường một loại thuốc mang tên Viagra với hàm ý giúp quý ông “yếu sinh lý” tìm lại được sự cường tráng với một sức mạnh vô biên như dòng thác Niagara.

Tờ Time (số ra ngày 11/05/1998) đã chạy trên trang bìa hình viên thuốc Viagara VGR 100mg, màu tím, với dòng tít:

“Forget the deer tail, powdered sea horse, oysters on the half shell and candlelight dinners… There is a cure for IMPOTENCE and it’s a pill called Viagra”.

Theo quan niệm của người Phương Tây, “đuôi nai” (deer tail), “bột hải mã” (powder sea horse), “sò nửa vỏ” (oyster on the half shell) là những món có tác dụng tăng cường dương sự… bên cạnh đó là “những bữa ăn tối dưới ánh đèn cầy” (candlelight dinners) cũng có tác dụng tạo điều kiện thơ mộng và lãng mạn cho những cặp tình nhân “yêu nhau”. Tờ Time cho rằng nay không còn cần đến những thứ đó vì đã có “cách trị” (cure) nhược dương với loại “thuốc viên” (pill) mang tên Viagra.


“It’s the fastest takeoff of a new drug that I’ve never seen, and I’ve been in this business for 27 years”. Đó là nhận xét của Michael Podgurski, Giám đốc phụ trách các cửa hàng dược phẩm của mạng lưới Rite Aid gồm 4.000 tiệm bán thuốc trên khắp nước Mỹ.

Tờ Time đưa tin hiện nay tại Mỹ mỗi ngày có khoảng ít nhất là 10.000 “toa thuốc” (prescription) kê tên Viagra với giá “giao động” (fluctuate) từ 8 đến 12 USD. Doanh số bán của Viagra sẽ tăng vọt vì đây không phải là loại thuốc uống theo kiểu “thuốc bổ” (vitamin) “mỗi ngày một viên” (one-tablet a day) mà là loại thuốc uống “một giờ trước khi giao hợp” (one hour before intercourse) có tác dụng tạo sự “cương cứng” (erection).

Tương đương với chứng “lãnh cảm” (frigidity) ở nữ giới, thuật ngữ “impotence” được dùng cho phái nam. Ngày nay giới y học còn dùng cụm từ “erectile dysfunction” (ED) để chỉ tình trạng mất khả năng cương cứng.

Tình trạng ED ảnh hưởng theo tuổi tác: tại Mỹ, cứ 20 người thuộc nhóm tuổi trên 40 sẽ có 1 người bị ED, ở nhóm tuổi trên 65, tỷ lệ này là ¼. Như vậy, nhóm “nhược dương” tại Mỹ có thể lên đến khoảng 30 triệu người, trong đó có hơn nửa thuộc nhóm dưới 65 tuổi.


Người Mỹ dùng thuật ngữ “baby boomers” để chỉ những người sinh ra sau “Thế chiến thứ hai” (Second World War), trong khoảng thời gian từ 1947-1961. Giai đoạn này còn được gọi là thời kỳ “bùng nổ trẻ em” (baby boom), được đáng dấu bằng “tỷ lệ sinh sản” (birthrate) tăng vọt một cách bất ngờ. Để chỉ hiện tượng ngược lại với “baby boom”, người ta dùng “baby bust” với hàm ý “sự giảm sút đột biến về tỷ lệ sinh sản” (sudden decline in birthrate) do kết quả của việc “kế hoạch hóa gia đình” (family planning) như hiện nay.

Tại Mỹ hiện có khoảng 79 triệu người thuộc nhóm “boomers”, họ bắt đầu vượt qua ngưỡng của tuổi 50. Và đó chính là cơ sở để dự báo Viagra sẽ có khả năng đạt doanh số 2 tỷ USD vào năm 2000. Cũng vì vậy, giá “cổ phiếu” (stock) của Pfizer hiện đã lên đến 118 USD so với 45 USD cách đó 1 năm. Không phải chỉ mình Pfizer biết khai thác nhóm đối tượng “boomers”. Trong năm 1998 các công ty thuộc “ngành công nghiệp dược phẩm” (pharmaceutical industry) tại Mỹ sẽ chi khoảng 20 tỷ USD để tung ra các loại thuốc nhằm khai thác “một thị trường do nhu cầu ngày càng gia tăng” (a growing, demand-driven market) của những “baby boomers”.

Họ là những người cần các loại thuốc ngăn chặn “những vết nhăn” (wrinkles) trên mặt, “chứng rụng tóc” (trichorrhea), “chứng hói đầu” (baldness) hoặc các loại thuốc phòng ngừa “những cơn đau tim” (heart attacks) hay “đột quỵ” (stroke).

Một cách quảng cáo “trước” và “sau” khi uống Viagra

Trở lại chuyện Viagra, nhiều nhà khoa học cho rằng đây vẫn chưa phải là loại “thuốc trị được mọi chứng liên quan đến tình dục” (sexual cure-all) và lại càng không phải là “thuốc kích dục” (aphrodisiac). Tờ Time cho biết: “… it will not work in the absence of desire”, thuốc sẽ không có tác dụng khi người sử dụng không ở trong tình trạng có sự ham muốn.

Trong khi nhà sản xuất cho rằng chưa có “bằng chứng” (evidence) để kết luận “người sử dụng quá nhiệt tình” (overeager user) sẽ “nghiện” (addict) Viagra. Time khuyến cáo cần chú ý đến những “rủi ro” (risk) trong việc dùng thuốc, đó là những “tác dụng phụ” (side effect) như “nhức đầu” (headache), “mờ thị giác” (blurred vision) hoặc “cương dương vật kéo dài” (priaprism)… có thể dẫn đến bất lực hoàn toàn.

Tờ Newsweek (ngày 4/5/1998) đưa tin Pfizer đã “kiện” (sue) những người cung cấp hai loại thuốc nhái tên Viagra – Vaegra và Viagro – qua đường bưu điện và iternet với tội “vi phạm nhãn hiệu thương mại” (trademark infringement).

Theo Newsweek, việc bán thuốc trên internet cũng là một vấn đề khiến “các viên chức y tế” (health officials) phải lo lắng. Để mở một tiệm bán thuốc cần có giấy phép theo luật định nhưng mọi người đều có thể mở một “trang web” (web site) trên internet để bán thuốc đi khắp thế giới qua đường bưu điện.

Chúng tôi đã thử truy cập từ “Viagra” trên dịch vụ American On Line (AOL) và kết quả là hệ thống này thông báo có đến 566 bài viết và “web site” về Viagra kèm quảng cáo bán thuốc!

Quảng cáo sức mạnh của Viagra trên mạng

Quả là sự nhậy bén của thời đại bùng nổ thông tin!

***********

--> Read more..

Chủ Nhật, 17 tháng 1, 2016

Chuyện bên lề giải Oscar

HỌC BÁO TIẾNG ANH
Kiến Thức Ngày Nay, Số 227, ngày 10/04/1998

***

“A night to remenber” là hàng tít chạy trên bản tin của hãng thông tấn Mỹ, Associated Press (AP), trong bài tường thuật buổi lễ trao giải Oscar lần thứ 70 của “Viện Hàn lâm Khoa học và Điện ảnh” (Academy of Motion Picture Arts and Sciences – AMPS) được tổ chức đêm 23/03/1998 tại Hollywood, Los Angeles.

Đây cũng là “đêm đáng nhớ” (a night to remember) của bộ phim “Titanic” [1] với 11 giải Oscar, ngang hàng với bộ phim Ben Hur, cũng đoạt 11 Oscar vào năm 1959.


“Những người đoạt giải” (award winners) đã nói gì trong “đêm lịch sử” (historic night) tại Shrine Auditorium, nơi tổ chức lễ trao giải Oscar, con được gọi là “Giải của Viện Hàn lâm” (Academy Award)?

James Camaron [2], người đoạt giải “Đạo diễn xuất sắc nhất” (Best Director) với bộ phim “Titanic” đã không dấu được xúc động:

“… I just want to say… we’re here tonight to celebrate to “the magic of movies” (sự kỳ diệu của điện ảnh) and I’m grateful every day to get to be a part of that magic, a practitioner in it… and I love it… and tonight has been such a great celebration for us.”

Xin chú ý, “những lời phát biểu khi nhận giải” (acceptance speech) được “ghi lại nguyên văn” (sic) trên internet (http://www.oscar.com) với chú thích “Grammatical errors will be corrected after the event”.

Giữa “ngôn ngữ nói” (spoken language) và “văn viết” (prose) là cả một “khoảng cách” (gap), đó chính là “những lỗi văn phạm” (grammatical errors) trong những lời phát biểu ứng khẩu.

Cái khéo của đạo diễn Cameron trong đêm phát giải là yêu cầu “cử tọa” (audience) dành “một vài giây yên lặng để mặc niệm” (a few seconds of silence in remembrance) 1.500 người đã chìm theo “Titanic” trong “thảm kịch” (tragedy) năm 1912.

“I would just like everybody to go with me for a second… I would like to do a few seconds of silence in remembrance of the 1,500 men, women and children who died when the great ship died.”

Cameron nhắc nhở mọi người rằng “cuộc sống thật quý giá” (life is precious) nên trong khoảnh khắc mặc niệm những người đã mất “xin hãy nghe nhịp đập của chính trái tim quý vị” (listen to the beating of your own heart), đó chính là “điều quý giá nhất trên cõi đời” (the most precious thing in the world).

Trong “cuộc phỏng vấn hậu trường” (backstage interview), báo chí đã hỏi Cameron về việc “bản phim gốc” (original film) “Titanic” bị cắt chỉ còn 3 giờ 14 phút, liệu có cách nào để khán giả có thể xem “phần cắt của đạo diễn” (director’s cut) hay không?

Cameron cho biết trước mắt có “đĩa laser” (laser disc) và trong tương lai sẽ ra “phiên bản đĩa laser đặc biệt” (laser disc special edition) để đáp ứng yêu cầu của những khán giả muốn xem “Titanic” dài hơn. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh, “Don’t expect a seven-hour movies… but we can probably add 15 to 20 minutes”.

James Cameron 


Jack Nicholson [3], giải Oscar “Nam diễn viên xuất sắc nhất trong vai chính” (Best Actor in a Leading Role) qua bộ phim “As Good as It Gets”, kể lại cú sốc khi được tuyên bố trúng giải:


“When I saw my picture come up on the television set, I was kind of shocked. You know.” Có lẽ cũng bị ám ảnh bởi “vụ chìm tàu” (sinking) “Titanic”, Nicholson “nửa đùa nửa thật” (half-jokingly) phát biểu trên sân khấu lúc nhận giải: “I had a sinking feeling all night, right up to here.”


Nicholson (61 tuổi) đã từng nhận 1 Oscar diễn viên xuất sắc nhất năm 1975 với bộ phim “One Flew Over the Cuckoo’s Nest” và 1 Oscar “Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất” (Best Supporting Actor) trong phim “Terms of Endearment” năm 1983.


Thêm một Oscar năm nay, Nicholson là một trong số 4 diễn viên đã có trong tay từ 3 đến 4 Oscar: Katharine Hepburn (4 Oscar), Ingrid Nergman và Walter Brennam, mỗi người 3 Oscar.

Jack Nicholson nhận Oscar đầu tiên với phim “One Flew Over the Cuckoo’s Nest” 
năm 1976


Bộ phim “hài lãng mạn” (romantic comedy) “As Good as It Gets” cũng mang lại cho Helen Hunt giải “Nữ diễn viên xuất sắc nhất trong vai chính” (Best Actress in a Leading Role). Helen Hunt, năm nay 34 tuổi, đã dành được Oscar về cho điện ảnh Mỹ vì trong số 5 “người được đề cử” (nominee) cho giải này có đến 4 diễn viên người Anh, kể cả Kate Winslet, trong vai Rose trong “Titanic”.


Tựa phim “As Good as It Gets” mang hàm ý “không thể tốt hơn” nên một phóng viên đã hóm hỉnh chơi chữ với câu hỏi: “Silly question, but is it … as good as it gets?”. Để trả lới câu hỏi mà phóng viên đã rào đón là “ngớ ngẩn” (silly), Hunt cũng rất khôn khéo: “I hope not… I hope I have a long career ahead of me, and working with people like Jim [James Cameron]”.


AP cũng đưa tin bên lề Oscar: “Dog has its day”. Verdell, “nàng chó xù” (pooch) đóng cùng phịm với Helen Hunt, tuy không nhận Oscar nhưng được “Cửa hàng trang sức cho thú cưng” (jewellery for pets) Petitgree tại Dallas tặng “dây xich đeo cổ” (neck chain) trị giá 250 USD.


Oscar dành cho “Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất” (Best Supporting Actress) đã về tay Kim Basinger (45 tuổi) trong phim “L.A. Confidential”, người đã vượt qua Gloria Stuart (87 tuổi) với vai cụ bà Rose trong phim “Titanic”. Basinger đã nói với cử tọa trong đêm trao giải thưởng: “If anyone has a dream out there, I’m living proof that it can come true”.


Trong khi đó, Robin Williams, “Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất” (Best Supporting Actor) trong phim “Good Will Hunting”, được mô tả là “nói không nên lời” (speechless) khi nhận tượng vàng Oscar.


Đêm phát giải Oscar còn là “cuộc trình diễn thời trang lớn nhất thế giới” (the world’s biggest fashion show) vì ngoài những người được đề cử, ban tổ chức còn mời tất cả những người đã từng nhận giải Oscar đến dự. Đây cũng là một dịp để các ngôi sao “đóng bộ” (dress up) nhằm thu hút sự chú ý của công chúng và khoảng 1 tỷ “khán giả truyền hình thế giới” (worldwide TV audience).


Gloria Stuart đeo “sợi dây chuyền kim cương màu xanh” (blue diamond necklace) trị giá 20 triệu USD theo kiểu sợi dây chuyền trong phim “Titanic”. Phải có đến 2 “vệ sĩ” (bodyguard) “hộ tống” (escort) người nữ diễn viên tuổi ngoài 80 đã hụt giải Oscar năm nay.


Ca sĩ Madona tiết lộ với báo chí: “It took me three hours to get ready for the show”. Madona đã sử dụng những “phụ tùng” rất tỉ mỉ thuộc loại “body glitter”, trang sức phản quang gắn trên ngực, trên mặt, trên cánh tay và thậm chí cả ở “khóe mắt” (eye corner). 

AP kết luận: “Well, that’s what it’s like getting ready for the Oscar”.


***


Chú thích:


[1] Titanic (đọc là tai-te-nic) là “tàu chở khách” (passenger liner) đã đi vào lịch sử ngành hàng hải vì vụ tai nạn kinh hoàng khi chìm ở Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Ocean) vào sáng sớm ngày 15/4/1912. Titanic đã “đụng” (collide) phải một “tảng băng trôi” (iceberg) ngay trong “chuyến hải hành đầu tiên” (maiden voyage) từ Southampton (Anh) đến New York City (Mỹ).


RMC Titanic là chiếc tầu lớn nhất do hãng White Star Line điều hành, được đóng tại Belfast (Anh), do “kiến trúc sư hàng hải” (naval architect) Thomas Andrews giám sát từ năm 1909 đến năm 1912. Andrews đã chìm cùng 2.500 hành khách và “thủy thủ đoàn” (crew). Đa số hành khách chìm theo tầu là những người thuộc “tầng lớp khá giả” (wealthy class).



[2] James Francis Cameron (sinh ngày 16/8/1954) là đạo diễn người Mỹ gốc Canada, ông được biết đến như một đạo diễn điện ảnh tên tuổi trên thế giới. Cameron còn là 
“nhà phát minh” (inventor), “kỹ sư” (engineer), “nhà từ thiện” (philanthropist) và ”nhà thám hiểm dưới biển” (deep-sea explorer). 


Cameron thành công trong “phim khoa học giả tưởng” (science fiction film) The Terminator (1984) và “kỹ xảo đặc biệt” (special effects) trong bộ phim Terminator 2: Judgment Day (1991). Tuy nhiên, phải đến bộ phim Titanic (1997) ông mới trở thành một nhân vật xuất sắc của điện ảnh với 3 giải Oscar dành cho “Phim hay nhất” (Best Picture), “Đạo diễn hay nhất” (Best Director) và “Biên tập Phim” (Film Editing) năm 1997.


[3] John Joseph Nicholson (sinh ngày 22/4/1937) là một nam diễn viên nổi tiếng của điện ảnh Hoa Kỳ, ông được coi là một trong những diễn viên xuất sắc nhất trong lịch sử Hollywood và nổi tiếng với việc vào vai những nhân vật bị thần kinh hoặc gặp vấn đề về tâm lý.


Nicholson đã được đề cử giải Oscar Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất 12 lần và đã giành chiến thắng 3 lần. Ông và Walter Brennan là hai diễn viên nam đoạt nhiều giải Oscar nhất, hai người cũng chỉ xếp sau nữ diễn viên nổi tiếng Katharine Hepburn về tổng số lần đoạt giải Oscar cho diễn xuất (Hepburn đã có 4 giải).


***
--> Read more..

Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016

Yasser Arafat: Một lãnh tụ đã nằm xuống


"Dân tộc Palestine không có được sự nhận diện quốc gia. Tôi, Yasser Arafat, người của định mệnh, sẽ đem lại cho họ sự nhận diện đó thông qua cuộc đối đầu với Israel"
Yesser Arafat


Ngày 12/11/2004, ông Yasser Arafat, "lãnh tụ người Palestine" (Palestinian leader), "đã được chôn cất" (to be buried) "trong sự thương tiếc và hỗn loạn" (in grief and chaos) của hàng ngàn người Palestine.

Họ đã leo tường vào khu đất chôn ông để cố lao vào gần "quan tài" (coffin), bất chấp "các loạt súng bắn chỉ thiên" (volleys of gunfire in to the sky) của "nhân viên an ninh Palestine" (Palestinian security guard). Cố chạm tay vào chiếc quan tài, "hàng loạt những người chịu tang cuồng nhiệt đã đạp cả lên tấm thảm đỏ" (fenzied flows of mourners trampled the red carpet) khi hai chiếc "trực thăng" (helicopter) của Ai Cập chở ông Arafat và "đoàn tùy tùng" (entourage) trở về quê nhà.

Tờ New York Times (NYT) mô tả đám tang của ông Arafat: “Tiếng than khóc và cầu nguyện” (wails and chants) chen lẫn tiếng súng nổi lên khắp mọi nơi... “Chúng tôi nguyện hy sinh xương máu và linh hồn để cứu rỗi ông” (We will sacrifice our blodd and souls to redeem you).

Trong hơn một tiếng đồng hồ, lực lượng an ninh và “các lãnh tụ chính trị” (political leaders) đã làm hết sức mình để kiểm soát đám đông khoảng 20.000 người và cuối cùng đã quyết định “bỏ phần lễ tang dành cho quan khách” (skip a mourning ceremony for dignitaries) để ông Arafat “được nằm xuống một cách mau chóng” (was quickly lowered into the ground).

Quang cảnh tại Palestine “tương phản với buổi lễ tang chính thức của ông Arafat mang tính trang trọng và khô khan tại Cairo trước đó” (contrast to the official and sterile dignity of Mr. Arafat funeral service earlier in the day), buổi lễ này chỉ dành riêng cho các quan chức.

Tuy nhiên, lễ tang tại Ai Cập là “một dịp đặc biệt để các lãnh đạo Ả Rập bày tỏ sự tôn kính đối với ông Arafat” (a chance for Arab leaders in particular to pay homage to Mr. Arafat), họ là những người “không muốn đi đến vùng lãnh thổ Do Thái chiếm đóng” (did not want to travel into Israel-occupied territory).

Ai Cập cũng là nơi vợ ông Arafat, bà Suha, và con gái Zhawa, 9 tuổi, “bày tỏ sự kính trọng trong nước mắt” (paid their tearful respects) đối với người “đã tân tụy trong suốt sự nghiệp 40 năm cho một nhà nước Palestine độc lập” (devoted his 40-year-career for an independent Palestinian state).

Suha và con gái Zahwa Arafat ngày nay

Tại Palestine, Nisrin Dakaba, 25 tuổi, nói với phóng viên NYT: “Đối với tôi, ông Arafat như là một người cha” (Mr. Arafat is like a father to me), “với tôi ông không chết” (to me he did not die). “Ông ở trong trái tim tôi” (he is in my heart), và “tôi sẽ không bao giờ quên ngày này trong suốt cuộc đời tôi” (I will never forget this day in all my life)".

Cũng có những người như Mazen Qupty, “một người Do Thái gốc Palestine” (a Palestinian Asraeli), đã đi bộ cùng con trai qua “các trạm kiểm soát của Israel” (Israeli checkpoints) để tham dự “giây phút lich sử trong cuộc đời của người dân Palestine” (historic moment in the life of the Palestinian people).

Qupty nói về ông Arafat: “Đây là một ngày buồn, “thật đáng buồn khi bị mất ông” (it’s sad to loose him), cho dù bạn có đồng tình với ông hay không” (whether you agreed with him or not)”. Theo Qupty, “Đây cũng là một ngày để toàn thế giới biết là người Palestine quan tâm đến hòa bình” (it’s also a day to show all the world that Palestinians care for peace) và rằng chính Sharon, chứ không phải Arafat, là “trở ngại thực sự cho nền hòa bình” (the real obstacle to peace)". Qupty ám chỉ Ariel Sharon, đương kim “Thủ tướng Israel” (Israel’s Prime Minister).

Cái bắt tay lịch sử giữa Sharon và Arafat trước sự chứng kiến của TT Clinton, ngày 13/9/1993 tại Washington D.C.

Giáo sư Daoud Kuttab, thuộc Đại học Al Quds, thành phố Jerusalem, người đã bị ông Arafat “bỏ tù trong một tuần” (jail for a week) vào năm 1997 vì tội “tố cáo tham nhũng” (denouncing corruption) cho biết:

“Sức thu hút” (charisma) của Arafat và “những gì ông làm được cho người dân Palestine” (what he’s done for the Palestinian people) khiến chúng ta “tha thứ cho ông những lỗi lầm” (forgive him his mistakes). “Đối với ông, tôi hoàn toàn không có sự cay đắng” (I have no bitterness to him at all)".

Kuttab cho rằng người Palestine sẽ nhớ mãi ông Arafat là người đã “từ chối nhượng bộ một số nguyên tắc cơ bản” (refuse to yield on a certain basic principles): “Ông đã từ chối việc nhượng bộ Jerusalem, “về việc công nhận biên giới năm 1967 và đề ra nghị quyết công bằng cho vấn đề người tị nạn” (recognition of the 1967 borders and a fair resolution of the refugee issue)”.


Mahmoud Abbas, “người kế nhiệm nổi bật nhất của ông Arafat” (Arafat’s most prominent successor), có thể có “những chiến lược khác” (different tactics), đặc biệt là việc ông lên án chủ nghĩa khủng bố” (especially with his condemnation of terrorism) và “những vụ ném bom tự sát” (suicide bombings). Tuy nhiên, đối với ông Abbas, tựu chung “những mục tiêu chính trị cơ bản sẽ không khác nhiều so với người tiền nhiệm” (fundamental political goals are little different from the predecessor).

Người Palestine cũng rất “tự hào về sự tôn kính ông Arafat” (proud of the respect shown to Mr. Arafat) của Tổng thống Pháp, Jacques Chirac, cũng như của “các lãnh tụ Phương Tây và Ả Rập tại Ai Cập” (Western and Arab leaders in Egypt). Riêng chính phủ Israel không phái một quan chức nào đến dự lễ tang ông Arafat. Đối với Israel, người Palestine bị coi là “những thành phần khủng bố” (terrorist elements).

Yosef Lapid, “Bộ trường Tư pháp Israel” (Israeli Justice Minister) phát biểu với hãng thông tấn Reuters: “Tôi không nghĩ là chúng tôi nên cử đại diện đến dự tang lễ của người đã giết hại hàng ngàn người dân của chúng tôi” (I do not think we should send a representative to the funeral of somebody who killed thousands of our people)”.

Dù sao đi nữa, ông Arafat vẫn là “một lãnh tụ có tầm vóc thế giới” (a global leader).

Nguyễn Ngọc Chính.
HỌC BÁO TIẾNG ANH
(Kiến Thức Ngày Nay, số 515, ngày 01/12/2004)

--> Read more..

Online

Since 17/01/2016

Now online

Flag Counter
Since 20/12/2015

Popular posts